Khái Lược Lịch Sử Tư Tưởng Triết Học Việt Nam (Tái bản lần thứ hai có chỉnh lý) - Nguyễn Tài Đông (Chủ biên)
Cuốn sách “Khái lược lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam” của tập thể tác giả Nguyễn Tài Đông, Nguyễn Tài Thư, Lê Thị Lan, Trần Nguyên Việt, Nguyễn Bá Cường, Trần Thị Túy Ngọc, Hoàng Minh Quân do Nhà xuất bản Đại học Sư phạm xuất bản với dung lượng 500 trang. Ngoài ph
VIETNAMBOOK
@vinabook-jscĐánh giá
Theo Dõi
Nhận xét
Cuốn sách “Khái lược lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam” của tập thể tác giả Nguyễn Tài Đông, Nguyễn Tài Thư, Lê Thị Lan, Trần Nguyên Việt, Nguyễn Bá Cường, Trần Thị Túy Ngọc, Hoàng Minh Quân do Nhà xuất bản Đại học Sư phạm xuất bản với dung lượng 500 trang. Ngoài phần Lời mở đầu, Phụ lục và Tài liệu tham khảo, nội dung cuốn sách được cấu trúc thành 5 chương: - Chương 1: Giai đoạn từ sơ sử đến khi giành được độc lập dân tộc (từ thế kỷ VII TCN đến năm 938) - Chương 2: Giai đoạn phục hưng ban đầu của tư tưởng - văn hóa dân tộc (thế kỉ X - XV) - Chương 3: Triết học việt nam ở thời kỳ khủng hoảng, cát cứ của các thế lực phong kiến (thế kỷ XVI - XVIII) - Chương 4: Triết học Việt Nam triều Nguyễn (thế kỷ XIX) - Chương 5: Triết học Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX Triết học là một hình thái ý thức xã hội, thể hiện sự khôn ngoan của con người trong giải quyết các mối quan hệ đa dạng, nhiều chiều với môi trường tự nhiên, xã hội và tư duy. Triết học là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng, xét đến cùng bị quy định bởi đời sống vật chất của xã hội. Ngay từ buổi bình minh của lịch sử, triết học đã xuất hiện dưới dạng mầm mống tư tưởng, phản ánh thế giới quan và nhân sinh quan của con người, đồng nhất, gắn kết với các hình thái ý thức xã hội khác như nghệ thuật, tôn giáo, đạo đức, chính trị, khoa học... Khi trình độ văn minh, càng phát triển thì triết học cũng phát triển theo, ngày càng tách biệt khỏi các hình thái ý thức xã hội khác và trở thành một hình thái ý thức xã hội độc lập và đặc thù. Lịch sử triết học là lịch sử các tư tưởng triết học đi từ giai đoạn mầm mống sơ khai, qua giai đoạn đồng nhất, gắn kết với các hình thái tư tưởng xã hội khác, tới các học thuyết triết học độc lập. Quá trình đó gắn liền với lịch sử phát triển của nhân loại, chịu sự tác động của lịch sử, đặc biệt là của các sự biến quan trọng làm thay đổi nền tảng cơ sở hạ tầng, dẫn tới sự thay đổi hoặc sớm hoặc muộn của kiến trúc thượng tầng, trong đó có triết học. Việt Nam là một quốc gia có lịch sử hình thành lâu đời, oai hùng và phức tạp. Ngay từ buổi đầu hình thành dân tộc, Việt Nam đã phải chịu một thử thách nặng nề của lịch sử: Hơn một nghìn năm dưới ách cai trị của phong kiến Trung Hoa. Ách thống trị hơn một thiên niên kỷ này đã làm biến dạng toàn bộ những nhân tố nền tảng đang trong quá trình hình thành dân tộc hợp quy luật của Việt Nam. Nó tạo ra một hiện thực lịch sử khác, vô cùng phức tạp, được các nhà sử học gọi là “phi chính thường” trong lịch sử hình thành và phát triển của dân tộc Việt Nam. Chính hiện thực này đã quy định sự phức tạp, tính đặc thù không dễ lý giải của đời sống tinh thần người Việt Nam. Tuy nhiên, cũng như những dân tộc văn hiến khác, Việt Nam có lịch sử triết học của riêng mình. Nền triết học đó trải qua quá trình phát triển lâu dài dưới quy luật giao lưu, tiếp biến, chọn lọc giá trị của văn hoá, đã trở thành cốt lõi của nền văn hoá Việt, trở thành khuôn khổ giá trị tinh thần và công cụ lý luận giúp cho dân tộc Việt Nam khẳng định sự tồn tại và phát triển không ngừng, song hành với các dân tộc khác. Cũng như lịch sử triết học của nhiều dân tộc, triết học Việt Nam hình thành và vận động qua các giai đoạn mầm mống sơ khai, tới giai đoạn thống nhất và gắn kết với các hình thái tư tưởng tôn giáo, đạo đức, chính trị... và tới giai đoạn các tư tưởng, học thuyết triết học độc lập. Nhưng khác với các dân tộc khác, quá trình hình thành và phát triển của các tư tưởng triết học này chịu ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc của điều kiện lịch sử và cơ cấu xã hội đặc thù của Việt Nam. Vì vậy, tính phức tạp, đặc thù của lịch sử triết học Việt Nam cũng là đương nhiên và không dễ nhận diện, lý giải. Lịch sử triết học Việt Nam đã trở thành một lĩnh vực nghiên cứu hấp dẫn và đầy thách thức, không chỉ bởi tính chất phức tạp, không dễ lý giải đó, mà còn chủ yếu bởi giá trị và vai trò của những tư tưởng triết học này đối với quá trình lịch sử khẳng định vị thế của dân tộc trong tương quan khu vực và quốc tế. Sức hấp dẫn và tầm quan trọng của lĩnh vực lịch sử triết học Việt Nam đã thu hút sự quan tâm của nhiều thế hệ người nghiên cứu. Đã có một số công trình về lịch sử tư tưởng Việt Nam, lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam được xuất bản rải rác trong nhiều năm qua. Những công trình này, như những dấu mốc của mỗi chặng đường nghiên cứu về lịch sử triết học dân tộc của giới học thuật Việt Nam, đã góp phần ngày càng làm sáng rõ hơn các vấn đề nghiên cứu, các phương diện nghiên cứu cũng như nội dung của lịch sử triết học Việt Nam. Những cách tiếp cận khác nhau, những quan niệm về triết học, về lịch sử triết học khác nhau, những phương diện nghiên cứu khác nhau và những phương pháp nghiên cứu khác nhau của các học giả đã cung cấp cho người đọc ngày càng nhiều tri thức và các tri thức ngày càng đa dạng hơn về lịch sử tư tưởng triết học của dân tộc. Tuy nhiên, dường như những người yêu quý, trân trọng các giá trị tinh thần của dân tộc, mà cốt lõi là tư tưởng triết học dân tộc, vẫn chưa thoả mãn với những kết quả nghiên cứu đã từng được công bố trong lĩnh vực này. Dường như vẫn tồn tại một khoảng cách giữa hiện thực lịch sử tư tưởng triết học dân tộc, vốn gắn kết với những thành tựu văn hoá - lịch sử rực rỡ, với cách lý giải và phương thức diễn đạt những giá trị tư tưởng triết học đó, đòi hỏi giới nghiên cứu phải nỗ lực hơn nữa trong kiếm tìm chân lý. Vì vậy, lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam vẫn đang là lĩnh vực nghiên cứu đầy tiềm năng, đòi hỏi sự đầu tư trí lực nhiều hơn nữa và hứa hẹn những thành quả nghiên cứu có ý nghĩa to lớn hơn đối với khoa học xã hội nói riêng, với sự phát triển nền tư duy lý luận của Việt Nam nói chung. Khi biên soạn cuốn sách “Khái lược lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam”, các tác giả đã có suy nghĩ về cách phân kỳ trong lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam. Có ba cách phân kỳ lịch sử triết học tương đối phổ biến: Một là, phân kỳ theo tiến trình lịch sử (biên niên); Hai là, phân kỳ theo các trường phái tư tưởng lớn, có thể là (1) Tư tưởng bản địa, (2) Phật giáo Việt Nam, (3) Nho giáo Việt Nam, (4) Tư tưởng cải cách và dân chủ...; Ba là, phân kỳ theo các vấn đề triết học, có thể là các vấn đề (1) Bản thể luận, (2) Nhận thức luận, (3) Đạo đức học, (4) Triết học chính trị... Tác giả lựa chọn cách thứ nhất là phân kỳ theo tiến trình lịch sử, vì nếu làm theo cách thứ hai, thì do các trường phái triết học ở Việt Nam không thật sự rõ ràng, sẽ có khả năng một số nhà tư tưởng không thể xếp vào bất kỳ một trường phái nào; hoặc nếu làm theo cách thứ ba thì rất dễ bó buộc triết học Việt Nam vào trong khuôn khổ hay cách định nghĩa của triết học phương Tây, không thể hiện đúng bản chất của tư tưởng triết học dân tộc. Phần lớn các bộ lịch sử triết học lớn của các nước cũng sử dụng cách phân kỳ theo lịch sử, ví dụ như bộ A History of Philosophy của Frederick Copleston, hay các bộ Lịch sử triết học Trung Quốc của Hồ Thích, Phùng Hữu Lan, Lao Tư Quang... Tất nhiên, để khắc phục được nhược điểm của cách phân kỳ này (các giai đoạn lịch sử nhiều khi không trùng với logic phát triển tự thân của lịch sử triết học, tính chất kể lể trong trình bày, sắp xếp một số tác gia đúng với thời đại của họ, không nổi bật các hệ vấn đề...) cũng hoàn toàn không đơn giản. Vậy phân kỳ lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam theo tiến trình lịch sử như thế nào? Các tác giả quan niệm không có một tiêu chí duy nhất để phân kỳ theo tiến trình lịch sử. Phân kỳ lịch sử triết học không thể tách rời những sự kiện chính trị trọng đại, triết học Việt Nam không thể tách rời vận mệnh dân tộc, không thể không gắn chặt với các biến cố quan trọng của xã hội, của đất nước. Phân kỳ trong lịch sử triết học phương Tây cũng có chiều hướng như vậy. Cách phân kỳ chủ yếu của lịch sử triết học phương Tây là căn cứ theo sự phân kỳ lịch sử và các biến cố chính trị trọng đại của xã hội. Ví dụ trong cách phân kỳ tiêu biểu là từ triết học Hy Lạp sang Triết học La Mã, Triết học Trung cổ, triết học Phục hưng, Triết học Khai sáng, Triết học thế kỷ XIX, Triết học thế kỷ XX, thì “Triết học Phục hưng” và “Triết học Khai sáng” chính là trực tiếp dùng các phong trào chính trị để đặt tên cho các giai đoạn triết học và các giai đoạn còn lại là dùng phương pháp phân kỳ từng giai đoạn lịch sử, hoặc căn cứ theo đơn vị từng thế kỷ. Với ví dụ về lịch sử triết học phương Tây, có thể suy ra không thể chỉ sử dụng một căn cứ hay một tiêu chí duy nhất để phân kỳ lịch sử triết học Việt Nam, dù căn cứ hay tiêu chí đó là “thời đại”, “triều đại”, “phương thức sản xuất”, “hình thái kinh tế xã hội”, “mô hình chính trị, “ý thức hệ chính thống” hay “hệ tư tưởng thống trị”... Nếu để hợp lý về mặt logic hình thức mà sử dụng một cách phân kỳ dựa trên một tiêu chí thì vô hình trung sẽ biến lịch sử tự nó thành lịch sử chủ quan, mất đi tính lịch sử cụ thể là nguyên tắc phương pháp luận của công trình được xác định từ đầu. Chính vì vậy, có thể sử dụng cùng lúc nhiều tiêu chí trong quá trình phân kỳ, miễn là với sự phân kỳ như vậy, tư tưởng triết học Việt Nam được thể hiện một cách đầy đủ nhất (trọn vẹn, hệ thống) và nổi bật nhất (với các đặc trưng). Để đáp ứng được yêu cầu này, cần lưu ý ít nhất ba điểm: Một là, mặc dù phân kỳ dựa theo biên niên sử, song không sử dụng một biến cố chính trị nằm ngoài hoặc không có quan hệ với logic phát triển tự thân của triết học; Hai là, mặc dù phân kỳ, song không cắt rời hoàn toàn từng giai đoạn, vì lịch sử tư tưởng, lịch sử triết học là phát triển liên tục (ví dụ Nguyễn Du vừa có thể xếp vào tư tưởng Nho giáo, vừa có thể xếp vào tư tưởng Phật giáo; hay Phan Bội Châu vừa có thể xếp vào triết học phục cổ Nho giáo, vừa có thể xếp vào triết học cách mạng); Ba là, cần nhấn mạnh đến sự kế thừa, phê phán và phát triển giữa các tác gia, các trường phái và các giai đoạn trong một thời kỳ hay giữa các thời kỳ, vì có như vậy mới góp phần chứng minh được rằng các tư tưởng triết học đó xuất phát từ chính bản thân cuộc sống, từ yêu cầu của dân tộc, chứ không phải là sự vay mượn từ bên ngoài, mặc dù có thể hệ thống khái niệm hay quan điểm được du nhập từ bên ngoài. Chính vì những lý do trên mà cuốn sách được phân kỳ theo tiến trình lịch sử, song để phản ánh rõ nét nhất tinh thần thời đại thì trong Chương 1 và Chương 2, các tác giả lựa chọn cách tiếp cận và trình bày theo vấn đề, chứ không trình bày theo từng tác gia giống như ở các chương sau.Giá sản phẩm trên Tiki đã bao gồm thuế theo luật hiện hành. Bên cạnh đó, tuỳ vào loại sản phẩm, hình thức và địa chỉ giao hàng mà có thể phát sinh thêm chi phí khác như phí vận chuyển, phụ phí hàng cồng kềnh, thuế nhập khẩu (đối với đơn hàng giao từ nước ngoài có giá trị trên 1 triệu đồng).....
Công ty phát hành
NXB Đại Học Sư Phạm
Ngày xuất bản
2024-12-30 14:03:40
Loại bìa
Bìa mềm
Số trang
392
Nhà xuất bản
Nhà Xuất Bản Đại Học Sư Phạm
Sản Phẩm Tương Tự
Đàng Trong Thời Chúa Nguyễn - Xác Lập ... Và Bộ Máy Nhà Nước (Tái bản năm 2021)
120.000₫
Đã bán 43
Sản Phẩm Liên Quan
Combo Trọn Bộ Sách PoMath - Toán Tư Duy Cho Trẻ Em 4-6 Tuổi (6 cuốn)
386.100₫
Đã bán 12